I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI, NỘI DUNG, GIÁ TRỊ CỦA DI CHÚC
1. Hoàn cảnh ra đời
- Năm 1965, nhân dịp sinh nhật lần thứ 75, vào lúc 9 giờ sáng ngày 10/5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc với tiêu đề "Tuyệt đối bí mật". Đến ngày 15/5/1965, bản Di chúc đầu tiên này hoàn thành, gồm ba trang, có chữ ký của Bác và bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ ngày 10/5/1965 đến lúc kết thúc viết Di chúc ngày 10/5/1969, Bác nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung, viết lại. Năm 1966 và 1967, Bác không có những bản viết riêng. Năm 1968, Người viết bổ sung một số đoạn gồm 06 trang viết tay. Ngày 10/5/1969, Bác viết lại toàn bộ phần mở đầu Di chúc, gồm 01 trang viết tay.
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên được công bố trong Lễ tang của Người tháng 9/1969. Ngày 19/8/1989, Bộ Chính trị ra Thông báo số 151-TB/TW Về một số vấn đề liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Di chúc công bố chính thức năm 1969 đảm bảo trung thành với bản gốc của Người. Nội dung chủ yếu dựa theo bản Bác viết năm 1965, trong đó đoạn mở đầu là của bản viết năm 1969, đoạn về việc riêng là của bản viết năm 1968. Lúc đầu, vì những lý do nhất định, nên một số vấn đề trong Di chúc của Bác chưa được công bố, như: Việc căn dặn của Người về hoả táng thi hài; việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi; miễn giảm thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp... Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1990), Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) đã quyết định công bố toàn bộ các bản viết Di chúc của Người.
2. Nội dung cốt lõi của Di chúc
- Trước hết nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định truyền thống đoàn kết chặt chẽ trong Đảng; yêu cầu thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng; giữ gìn Đảng ta thật trong sạch.
- Nói về đoàn viên và thanh niên, Bác nhấn mạnh vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khẳng định đây là đội hậu bị của Đảng, là người chủ tương lai của đất nước; yêu cầu Đảng phải chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho họ.
- Nói về nhân dân lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhân dân lao động bao đời chịu đựng gian khổ, bị nhiều áp bức bóc lột của phong kiến, thực dân; nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù, luôn đi theo và rất trung thành với Đảng. Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
- Dự báo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài nhưng nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, sau khi kháng chiến thắng lợi, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển đất nước; Đảng và Nhà nước phải quan tâm chăm lo tới mọi đối tượng trong xã hội, đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
- Về phong trào cộng sản thế giới, Người bày tỏ sự đau lòng vì sự bất hòa của các đảng anh em. Chủ tịch Hồ Chí Minh mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản có lý, có tình.
- Nói về một số việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ tiếc rằng không được phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Người căn dặn “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
- Mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
3. Giá trị cốt lõi của Di chúc
a. Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng
Di chúc là Tâm nguyện của Người: “Suốt đời tôi hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với nhân dân của Người thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và ngày thống nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về công việc của sự nghiệp cách mạng còn dang dở. Di chúc là tâm sự của một người đã suốt đời hy sinh hạnh phúc riêng tư, hiến dâng trọn cuộc đời cho Tổ quốc và nhân dân; là tấm lòng chung thuỷ với “các nước anh em” và “bầu bạn khắp năm châu”.
b. Di chúc là công trình lý luận về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền
- Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng ta là Đảng cầm quyền” và nêu những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng, đó là: Giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên. Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Bác cũng dặn Đảng phải chăm lo phát triển lực lượng cho hiện tại và chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, có như vậy mới thực hiện thành công lý tưởng xây dựng một xã hội mới, tiến bộ, văn minh. Đồng thời, Đảng phải giữ mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các đảng cộng sản và bè bạn quốc tế, dựa trên nguyên tắc “nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”.
c. Di chúc là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam, là phác thảo lý luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta
- Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối quan hệ giữa công bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại, động lực lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con người, tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
- Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội.
- Giá trị văn hoá của Di chúc chỉ dẫn con đường, mục tiêu phát triển của nền văn hoá Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc vận động lớn giáo dục văn hoá trong toàn dân, toàn xã hội, lấy văn hoá chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền và văn hoá trong thể chế nhà nước - một nhà nước dân chủ pháp quyền của dân, do dân, vì dân làm sức mạnh tiêu biểu nêu gương thuyết phục nhân dân. Qua lời dặn dò về việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn hoá mới; một lối sống tiết kiệm, không lãng phí; mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, môi trường sinh thái.
- Di chúc phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Người quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát triển; đổi mới là một cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian khổ, “là một công việc cực kỳ to lớn, nặng nề và phức tạp”, là “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.
- Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện nước ta phải đặc biệt chú trọng phát huy khả năng sáng tạo của dân, “động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.
II. NHỮNG THÀNH TỰU TRONG 50 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC
1. Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Thực hiện Di chúc của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân cả nước đã đứng lên, sức mạnh của cả dân tộc được huy động cao độ vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng đã tập trung sức lực và trí tuệ lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc cách mạng đưa cả nước đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Mặc dù tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, vừa phải thường xuyên đối phó với những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động, vừa phải xây dựng cuộc sống mới từ một nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, vừa phải làm nghĩa vụ quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt lên gian khổ và thu được những kết quả hết sức quan trọng là khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh; xây dựng một số cơ sở vật chất; phát triển được một số ngành kinh tế quan trọng; thiết lập và củng cố chính quyền nhân dân trên phạm vi cả nước; phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế. Đồng thời tiến hành thắng lợi hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc.
2. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bước đầu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân
Thực hiện Di chúc của Người, trải qua 9 kỳ Đại hội Đảng, kể từ Đại hội IV đến Đại hội XII, Đảng ta đã ngày càng xác định rõ hơn những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, Đảng ta luôn coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, đồng thời ra sức xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội.
Công cuộc đổi mới đất nước sau hơn 30 năm đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
3. Xây dựng Đảng thực sự đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đảng và trong toàn xã hội
Để thực hiện những điều căn dặn về xây dựng Đảng của Bác viết trong Di chúc, Đảng ta đã xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trong mỗi giai đoạn cách mạng. Đảng ta luôn luôn ý thức tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng nhằm tăng cường sức mạnh và tính chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng đã được đặt ra trong nhiều nghị quyết của Đảng, từ nghị quyết của các Đại hội đại biểu toàn quốc đến nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII (tháng 2/1999) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (tháng 01/2012) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (tháng 10/2016) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
Các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng đã đề ra những chủ trương và biện pháp quan trọng về xây dựng Đảng, củng cố, kiện toàn và làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh công tác tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; khắc phục những yếu kém trong bộ máy các tổ chức của Đảng và Nhà nước.
Cùng với kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động và đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và trong toàn xã hội để chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chính trị chủ đạo trong đời sống của đất nước.
4. Quan tâm chăm lo, xây dựng đào tạo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Đảng luôn chú ý đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ làm nguồn kế tục sự nghiệp cách mạng của thế hệ cha anh. Đảng cũng có nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác thanh niên. Các nghị quyết về giáo dục, đào tạo, về khoa học và công nghệ... đều đề cập nhiệm vụ giáo dục, chăm lo thế hệ trẻ, coi thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những năm qua, công tác lãnh đạo đối với hoạt động thanh niên và tuổi trẻ có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực. Các hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên Việt Nam ngày càng lôi cuốn nhiều đoàn viên, thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia.
Những tấm gương, điển hình tiên tiến, xung kích, đi đầu trong chiến đấu, lao động, học tập và công tác, nhất là trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đã tiếp tục khẳng định vị thế và vai trò quan trọng của thế hệ trẻ. Trên cơ sở quán triệt quan điểm “xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng trước một bước”, các tổ chức cơ sở Đoàn đã phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của đoàn viên, thanh niên, sinh viên trong thi đua thực hiện các nghị quyết của Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Thông qua đó, tạo môi trường thuận lợi để thế hệ trẻ trải nghiệm, tự rèn luyện mình, trưởng thành, phấn đấu, bổ sung lực lượng trẻ cho Ðảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
5. Xây dựng tinh thần quốc tế vô sản chân chính, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế đất nước trong hội nhập quốc tế
Đảng ta do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đề ra nhiệm vụ đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới, với các dân tộc bị áp bức, coi đó là một nguyên tắc, một trong những nhân tố quyết định thành công của cách mạng nước ta.
Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, Đảng xác định củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời nắm vững phương châm ngoại giao linh hoạt, có nguyên tắc trên tinh thần Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển; Nhất quán coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn kết, ủng hộ các phong trào cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì các mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Nêu cao nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và tận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của các lực lượng bên ngoài.
III. BÀI HỌC QUA 50 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC
1. Bài học về tinh thần lạc quan và bản lĩnh khoa học cách mạng của Đảng
Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đang trong giai đoạn ác liệt. Niềm tin sâu sắc về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước “nhất định thắng lợi hoàn toàn” trong bản Di chúc của Bác đã truyền ngọn lửa niềm tin vào mỗi con người và tạo nên sức mạnh to lớn - sức mạnh của niềm tin, của ý chí cách mạng của toàn dân tộc Việt Nam tạo nên Đại thắng Mùa xuân 1975 lịch sử. Trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, chúng ta phải đối mặt với những yếu kém, bất cập của cơ chế hành chính quan liêu bao cấp, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Chính trong hoàn cảnh đó, Đảng ta lại chứng tỏ bản lĩnh khoa học và cách mạng của mình bằng việc khởi xướng, tổ chức và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước. Tại Đại hội VI, Đảng ta đã “nhìn thẳng vào sự thật”, thực hiện tự phê bình và phê bình, nghiêm túc rút ra những bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam: “lấy dân làm gốc”, “tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, “đoàn kết toàn dân” phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Bài học về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng
Trong Di chúc, Bác khẳng định “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”. Việc giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi nhiệm vụ, “tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Nhờ đoàn kết, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhờ đoàn kết, thống nhất chúng ta đã đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhờ đoàn kết, thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân, đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới thành công, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, “giữ gìn sự đoàn kết và nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đoàn kết của Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đại đoàn kết dân tộc.
3. Bài học về thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình
Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất của Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta phải thực hành dân chủ thực sự. Nhờ dân chủ, Đảng đã khơi dậy, phát huy cao nhất trí tuệ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Nhờ dân chủ, trong Đảng đã khắc phục dần tình trạng bè cánh, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, quan liêu, hách dịch cửa quyền, xa rời quần chúng. Thực hành dân chủ rộng rãi nghĩa là phải dân chủ thực sự, dân chủ thường xuyên, dân chủ từ trung ương đến cơ sở. Nhưng, dân chủ phải gắn với tập trung. Tập trung dân chủ là nguyên tắc sống còn và cũng là biện pháp tốt nhất để xây dựng Đảng. Kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện trong thực hành dân chủ hình thức. Lợi dụng dân chủ để truyền bá những quan điểm, tư tưởng cá nhân, xâm hại đến lợi ích chung, gây mất đoàn kết trong Đảng, trong xã hội.
Thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc, là quy luật phát triển của Đảng. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh coi đây là biện pháp tốt nhất để củng cố, phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng. Người yêu cầu tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, nghiêm túc, không nể nang, qua loa đại khái, hình thức. Mục đích của tự phê bình và phê bình là giúp cho bản thân và đồng đội ngày càng tiến bộ hơn; tuyệt đối không vì mâu thuẫn cá nhân, động cơ cá nhân mà phê bình theo kiểu “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm vết” nhằm trù dập, đấu đá, hạ bệ lẫn nhau.
4. Bài học về sự quan tâm đặc biệt sâu sắc tới thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước
Đoàn viên, thanh niên là người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng. Những hạt giống tốt sẽ nảy nở, vươn cao những mầm xanh cho đất nước, quê hương. Bác căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Công việc này “quan trọng” vì không ai khác ngoài các thế hệ thanh niên sẽ kế tục sự nghiệp cách mạng. Công việc này “cần thiết” vì tính cấp bách trước mắt cũng như sự nghiệp lâu dài; việc rèn luyện đạo đức cách mạng, việc xây dựng một thế hệ cách mạng đòi hỏi phải có thời gian của sự thử thách.
5. Bài học về chăm lo, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân
Sự quan tâm tới nhân dân là bổn phận, trách nhiệm của Đảng bởi lợi ích của Đảng không nằm ngoài lợi ích của dân tộc, của nhân dân. Có như vậy, nhân dân mới có niềm tin vững chắc vào Đảng; một lòng một dạ đi theo Đảng để cuộc sống càng ngày càng hoàn thiện hơn.
6. Bài học về tinh thần cống hiến cho lý tưởng cách mạng
Khi nói về việc riêng trong bản Di chúc của mình, Bác “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” cho Tổ quốc, cho cách mạng và cho nhân dân. Bác nhấn mạnh từ “phục vụ” nhằm nói rõ nhiệm vụ của người làm cách mạng là phải quên mình “phục vụ” Tổ quốc, nhân dân. Người cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ” trung thành của nhân dân, không đòi hỏi một quyền lợi riêng cho mình, cống hiến trọn đời cho nhân dân, cho Tổ quốc.
IV. TIẾP TỤC THỰC HIỆN DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên
Thực hiện các nghị quyết Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là việc làm vừa cơ bản, cấp bách, vừa thường xuyên lâu dài, cần kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; lấy “xây” làm nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài, lấy “chống” làm nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, đột phá trên nguyên tắc giữ vững sự ổn định chính trị để phát triển đất nước. Vừa đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng vừa tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng.
2. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên Cùng với việc tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản về trách nhiệm nêu gương, đặc biệt là Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Nêu gương của cán bộ, đảng viên là tỏ rõ sự biết ơn Bác, tự hào và nguyện làm theo Bác. Nêu gương về lòng trung thành vô hạn với lý tưởng cách mạng, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao. Nêu gương về đạo đức, lối sống trong sáng; về bản lĩnh, trách nhiệm, niềm tin. Nêu gương phải thực chất, tránh hình thức, cố tạo ra hình ảnh, phải thật sự chân thực trong công việc, cuộc sống của mỗi người lãnh đạo, bình dị, giản dị như cuộc đời của Bác.
3. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Mục tiêu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại là một dấu mốc trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở ra những điều kiện mới, thuận lợi hơn cho việc tiếp tục xây dựng, phát triển đất nước lên tầm cao mới, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường thế và lực của đất nước. Để đạt được mục tiêu ấy, cần phải nhận thức đầy đủ và vận dụng đúng các quy luật phát triển, huy động được các nguồn lực của đất nước mà trước hết, quan trọng nhất là nguồn lực con người, phải có một lộ trình kế hoạch để từng bước thực hiện.
Nhân dân là mục tiêu tối thượng, đồng thời là động lực quyết định của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước của chúng ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân làm chủ. Mọi thành quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước đều vì hạnh phúc của nhân dân, vì mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Mọi nhiệm vụ cách mạng đều do nhân dân thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là yêu cầu xuất phát từ bản chất của chế độ ta.
4. Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, rèn luyện cán bộ, đáp ứng thực hiện nhiệm vụ cách mạng Thực hiện Di chúc của Người và để thực hiện tốt chiến lược “trồng người”, nhằm bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau đạt hiệu quả, trong thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền, ban, ngành chức năng từ Trung ương đến địa phương cần tập trung quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, Nhà nước về vị trí, vai trò của thế hệ trẻ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, giai đoạn 2015 - 2030”. Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - Đoàn Thanh niên - xã hội trong đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ toàn diện về mọi mặt; trong đó, chú trọng nguyên tắc đào tạo gắn với bồi dưỡng, tin tưởng giao việc, tạo điều kiện để tuổi trẻ được trải nghiệm, phấn đấu và trưởng thành.
5. Mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế Việt Nam trong hội nhập quốc tế Trong thời kỳ mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng lớn của hoạt động đối ngoại là “Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và an sinh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh... Triển khai đồng bộ hoạt động đối ngoại, cả về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu về đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại, hội nhập quốc tế, tạo đồng thuận trong nước và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước.
V. 60 NĂM BÁC HỒ VỀ THĂM NINH BÌNH (1959 - 2019) 1. Những lần Bác Hồ về thăm Ninh Bình Sinh thời, với cương vị là người đứng đầu Đảng, Nhà nước, tuy bận trăm công nghìn việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành nhiều thời gian đi thăm, động viên và làm việc cụ thể với chính quyền địa phương, bà con nông dân, cán bộ, công nhân các tỉnh, trong đó có tỉnh Ninh Bình. Trong khoảng 15 năm, từ tháng 1-1946 đến tháng 7-1960, Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình vinh dự và tự hào được 5 lần đón Bác Hồ về thăm.
1.1. Lần đầu tiên, ngày 13-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Giám mục Lê Hữu Từ và đồng bào Phát Diệm (huyện Kim Sơn). Khi gặp Giám mục Lê Hữu Từ, Người nói với mọi người: “Công giáo hay không Công giáo, Phật giáo hay không Phật giáo phải nên nỗ lực tranh đấu cho nền độc lập của nước nhà…”
[1]. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm đồng bào Phát Diệm. Nói chuyện với đồng bào, Người khen ngợi nhân dân huyện Kim Sơn đã cố gắng đắp đê, tăng gia sản xuất và giúp đỡ nhau trong lúc đói kém. Người hoan nghênh đồng bào đã khắc phục khó khăn, đi học bình dân học vụ. Trước hàng vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ nhiệm vụ của cách mạng nước nhà lúc này là phải ra sức giữ vững nền độc lập. Người nói với đồng bào công giáo rằng: “Đức chúa hy sinh vì nhân loại, Người vì loài người mà hy sinh phấn đấu, còn chúng ta thì hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Kính chúa nhưng phải yêu nước. Nước không được độc lập thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập đã”
[2].
Chia tay đồng bào thị trấn Phát Diệm, Người lên đường đi thăm thị xã Ninh Bình. Trên đường đi, Người ghé thăm Trường Huấn luyện thanh niên ở thôn Yên Phúc, xã Ninh Phúc, huyện Gia Khánh (nay là huyện Hoa Lư). Người khuyên anh em học viên phải cố gắng học tập vì địa phương và đất nước đang cần rất nhiều cán bộ cho cách mạng; phải tích cực tăng gia sản xuất, hết sức tiết kiệm, vì nước ta còn nghèo và phải chống giặc ngoại xâm.
Tạm biệt lớp học, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm thị xã Ninh Bình. Gặp gỡ người dân Ninh Bình, Người nói với đồng bào về nhiệm vụ trước mắt hiện nay là phải ra sức nêu cao tinh thần đoàn kết, “tương thân tương ái” để chống giặc đói, giặc dốt và chống giặc ngoại xâm, thực hiện kháng chiến và kiến quốc. Sau cùng, Người gặp gỡ, căn dặn các đồng chí cán bộ lãnh đạo tỉnh cố gắng lãnh đạo nhân dân củng cố chính quyền thật vững mạnh để tạo điều kiện tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cấp bách trước mắt.
1.2. Lần thứ hai, ngày 10-2-1947, giữa lúc cuộc kháng chiến, kiến quốc chống thực dân Pháp diễn ra cam go, quyết liệt, để kêu gọi toàn dân ủng hộ kháng chiến, Bộ Canh Nông tổ chức Hội nghị Điền chủ toàn tỉnh Ninh Bình tại xã Lạng Phong, huyện Nho Quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về dự và chủ trì Hội nghị.
Phát biểu với Hội nghị, Hồ Chủ tịch chỉ rõ, đồng bào tản cư, di cư đã vì lòng yêu nước không chịu theo giặc, tiêu thổ kháng chiến, hy sinh nhà cửa, tài sản quê hương sơ tán về hậu phương để tiếp tục kháng chiến chống giặc xâm lược. Đồng bào ở địa phương có nhiệm vụ ân cần đón tiếp, chăm sóc, giúp đỡ bà con nhanh chóng có nơi ăn, ở, sản xuất. Muốn làm được việc này ta phải có kế hoạch cụ thể, chu đáo đến từng nhà, từng người. Ta phải đồng tâm hiệp lực giúp đỡ nhau. Các kỹ nghệ gia, thương gia, nông gia đều phải giúp vào việc này và phải giúp đỡ nhau để phát triển. Người mong muốn cán bộ tỉnh Ninh Bình, huyện Nho Quan, các điền chủ và nhân dân Ninh Bình hết sức cố gắng vào công việc này, sao cho Ninh Bình là một tỉnh kiểu mẫu cho các tỉnh noi theo.
Sau hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm tu viện Châu Sơn, nơi xin nhận 120 đồng bào tản cư đến ở. Người thăm nhà thờ lớn, khu tu hành. Từ linh mục đến các tu sỹ, người phục vụ đều hân hoan đón chào Người và đều hứa với Người sẽ tận tâm giúp đỡ đồng bào tản cư.
1.3. Lần thứ ba, ngày 15-3-1959 Sáng ngày 15-3-1959, nhân dân xã Khánh Cư (huyện Yên Khánh) đang cùng bộ đội đào con ngòi Chùa Cao để lấy nước từ sông Đáy dẫn vào cánh đồng Chằm thì Bác Hồ nhanh nhẹn bước trên cánh đồng tiến về phía đồng bào đang lao động. Bác ân cần thăm hỏi cán bộ, nhân dân và bộ đội. Bác động viên, khích lệ mọi người hăng hái lao động quên mình chống hạn cứu lúa và căn dặn đồng bào hãy “cố gắng làm thủy lợi để lấy nước cứu hàng vạn mẫu lúa và cày cấy hết số diện tích còn lại”. Trước khi tạm biệt đồng bào, Bác trao cho đồng chí lãnh đạo xã Khánh Cư 5 chiếc Huy hiệu của Người để thưởng cho những cá nhân có thành tích chống hạn xuất sắc.
Trên đường trở về thị xã Ninh Bình, Người dừng xe xuống thăm bà con nông dân xã Ninh Sơn, huyện Gia Khánh (nay là phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình) đang tát nước tập đoàn cứu lúa bị hạn trên cánh đồng chân núi Cánh Diều.
Tại thị xã Ninh Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với hơn 2000 đại biểu cán bộ và nhân dân. Sau khi khen ngợi, biểu dương những cố gắng và thành tích chống hạn và sản xuất, nêu rõ khuyết điểm, thiếu sót cần phải khắc phục, Người dặn dò “Cán bộ phải có quyết tâm chống hạn và quyết tâm phải liên tục, bền bỉ. Biến quyết tâm của cán bộ thành quyết tâm của nhân dân, đoàn kết giúp đỡ nhau…”
[3]. Trước khi dứt lời, Bác nhắc nhở: “Nhân dân ta đã anh dũng trong kháng chiến, cần phải anh dũng trong sản xuất. Chúng ta phải thắng thiên tai, hạn hán, bão lụt… để sản xuất ngày càng được nhiều, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, đưa nước nhà dần tiến lên chủ nghĩa xã hội”
[4] 1.4. Lần thứ tư, ngày 18-10-1959 Ngày 18-10-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh về dự Hội nghị sản xuất vụ đông - xuân năm 1959 - 1960 tỉnh Ninh Bình do Tỉnh ủy, Uỷ ban Hành chính tỉnh Ninh Bình tổ chức. Mở đầu Hội nghị, Người nói: “Bác thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ đếnhỏi thăm và nói chuyện với các cô, các chú về vụ sản xuất đông - xuân này”
[5]. Tiếp đó, Người biểu dương, khen ngợi cán bộ và nhân dân Ninh Bình có nhiều thành tích trong vụ sản xuất đông - xuân 1958-1959, đã tích cực chống hạn cứu lúa, biết giữ nước và sản xuất khá. Người lưu ý các đại biểu bài học kinh nghiệm làm vụ đông - xuân vừa qua là “Phải đi đúng đường lối quần chúng trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch, phải biến quyết tâm của Đảng, của Chính phủ, thành quyết tâm của toàn thể cán bộ và quần chúng thì dù khó khăn mấy nhất định cũng khắc phục được và vụ đông - xuân nhất định sẽ tốt”
[6]. Đồng thời, Người nhắc nhở những công việc trước mắt mà bà con nông dân Ninh Bình phải làm và ân cần khuyên cán bộ và nhân dân Ninh Bình muốn sản xuất vụ đông - xuân này thắng lợi thì phải nhớ và làm đúng tám điều:
“Nước phải đủ, phân phải nhiều
Cày sâu, giống tốt, cấy đều dảnh hơn
Trừ sâu, diệt chuột chớ quên,
Cải tiến nông cụ, là nền nhà nông
Ruộng nương quản lý ra công
Tám điều đầy đủ, thóc bông đầy bồ”
[7].
Cuối buổi nói chuyện, Người căn dặn Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình: “…phải đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong Đảng và ngoài Đảng, đoàn kết lương giáo… Đoàn kết chặt chẽ để thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”
[8].
Như vậy, năm 1959 là năm vô cùng có ý nghĩa đối với Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình vì đã vinh dự được hai lần đón Bác về thăm. Đầu năm, Hồ Chủ tịch về thăm và kiểm tra công tác chống hạn tại một số tỉnh, trong đó có Ninh Bình; cuối năm, Người về dự Hội nghị sản xuất vụ đông - xuân năm 1959 - 1960 do Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh Ninh Bình tổ chức.
1.5. Lần thứ năm (và cũng là lần cuối cùng), ngày 20-7-1960 Ngày 20-7-1960, sau khi thăm một số nông trường quốc doanh ở Nghệ An, Thanh Hóa, trên đường về Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ đã tới thăm nông trường Đồng Giao, Tam Điệp, Ninh Bình. Bác đi tham quan các đội sản xuất, nhà ăn, nhà trẻ, khu chăn nuôi lợn, bò... Bác gần gũi, giản dị, đầy tình yêu thương với cán bộ, công nhân viên. Đến đâu, Bác cũng vui vẻ hỏi chuyện anh em công nhân và căn dặn phải tích cực sản xuất, phải chọn những cây trồng thích hợp, phù hợp với điều kiện tự nhiên để nâng cao năng suất, xứng đáng với hình mẫu đầu tiên của kinh tế quốc doanh nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Ngoài 5 lần về thăm Ninh Bình, Bác Hồ cũng thường xuyên quan tâm, theo dõi, viết thư thăm hỏi, khen ngợi, động viên khích lệ đồng bào Ninh Bình. Đặc biệt, bước sang năm 1969, do tuổi cao, sức khỏe giảm sút nhiều, Bác không về dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ X được. Ngày 26-5-1969, Bác đã gửi tặng Đại hội bức chân dung của Bác có ghi những lời dặn dò vô cùng quý báu đối với Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình “Khuyên cán bộ một lòng, một dạ phục vụ nhân dân. Chúc đồng báo các dân tộc đoàn kết chặt chẽ, sản xuất tốt, chiến đấu giỏi, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”
[9].
Như vậy, mỗi lần Bác về thăm là một vinh dự to lớn không chỉ đối với riêng địa phương, đơn vị nơi Bác đến mà là niềm vui chung, vinh dự lớn lao đối với cả Đảng bộ và nhân dân tỉnh Ninh Bình. Đó là tình cảm, sự quan tâm ân cần, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân tỉnh ta; đồng thời cũng là những nhiệm vụ cách mạng quan trọng mà Bác mong muốn Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình cần phải tập trung thực hiện, bao gồm: Đoàn kết lương giáo, tăng gia sản xuất, diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; xây dựng củng cố chính quyền cách mạng, đoàn kết và dân chủ; xây dựng củng cố hậu phương, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất...
Trong 5 lần Bác về thăm Ninh Bình, dịp Bác về dự Hội nghị sản xuất vụ đông - xuân ngày 18-10-1959 là dịp thể hiện rõ nhất tình cảm sâu sắc của Bác với Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta. Hội nghị sản xuất vụ đông - xuân năm 1959 - 1960 tỉnh Ninh Bình do Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh Ninh Bình tổ chức trong 3 ngày, từ ngày 17 đến ngày 19-10-1959, với sự tham dự của hơn 1.300 đại biểu là cán bộ chủ chốt của các đoàn thể, các ngành từ xã đến tỉnh
[10]. Bác thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ về dự và nói chuyện với Hội nghị. Những lời dạy của Bác tại Hội nghị không chỉ gói gọn trong nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp, không chỉ có giá trị trong vụ sản xuất đông - xuân năm 1959 - 1960 và trong 3 năm thực hiện kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960) mà còn mang tầm bao quát và có ý nghĩa to lớn soi đường, chỉ lối cho Đảng bộ, quân và dân Ninh Bình trong sự nghiệp cách mạng lâu dài. Đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết ngoài Đảng, đoàn kết lương - giáo, thi đua sản xuất, thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hành tiết kiệm đều là những vấn đề căn cốt mà Đảng bộ, quân và dân Ninh Bình luôn phải khắc ghi và thực hiện tốt để vươn lên, phát triển vững mạnh về mọi mặt, góp phần cùng nhân dân cả nước đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc đến thắng lợi vẻ vang.
2. Ninh Bình thực hiện lời dạy của Bác Khắc ghi lời dạy của Bác trong 60 năm qua (1959 - 2019), cùng với việc thực hiện những điều căn dặn của Bác trong Di chúc (1969 - 2019), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Ninh Bình luôn đoàn kết, nỗ lực, phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, góp phần cùng với nhân dân cả nước giành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Kháng chiến thành công, nhân dân Ninh Bình cùng với nhân dân Hà Nam Ninh tích cực khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội. Đặc biệt, từ sau khi được tái lập (năm 1992 đến nay), tỉnh Ninh Bình đã vươn lên giành được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực.
Kinh tế của tỉnh phát triển khá toàn diện và duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng GRDP (theo giá SS 2010) bình quân giai đoạn 2016-2018 ước đạt 8,21%/năm. Thu ngân sách trên địa bàn tỉnh khi mới tái lập năm 1992 mới chỉ đạt 40 tỷ đồng, đến năm 2018 đã tăng gấp hơn 300 lần, đạt 12.777 tỷ đồng. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp và dịch vụ. Năm 2018, tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng là 40,80%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản là 12,10%, dịch vụ là 47,10%. Đặc biệt, lĩnh vực du lịch có bước phát triển đột phá, Quần thể danh thắng Tràng An được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới, đã tạo điều kiện và mở ra cơ hội, vận hội lớn đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Lượng khách du lịch đến Ninh Bình ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước, năm 2018 đạt 7,3 triệu lượt khách, doanh thu từ du lịch đạt 3.200 tỷ đồng. Công tác xây dựng nông thôn mới đạt kết quả nổi bật, đến hết năm 2018, toàn tỉnh có 90 xã (chiếm 84% tổng số xã), 02 huyện Hoa Lư, Yên Khánh đạt chuẩn nông thôn mới và thành phố Tam Điệp hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Cùng với đẩy mạnh phát triển kinh tế,
văn hóa - xã hội của tỉnh được chú trọng đạt nhiều kết quả toàn diện về mọi lĩnh vực. Đến nay, Ninh Bình đã cơ bản hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất y tế, giáo dục, văn hóa, thể dục, thể thao… từ tỉnh đến cơ sở, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe, học tập, vui chơi, giải trí và sáng tạo của các tầng lớp nhân dân; đảm bảo hài hoà giữa phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội. Giáo dục - đào tạo đạt được nhiều kết quả tích cực, tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia các cấp ngày càng tăng, vững chắc. Công tác an sinh xã hội được quan tâm chỉ đạo, thực hiện kịp thời, đầy đủ các chính sách ưu đãi đối với người nghèo, người có công với cách mạng; công tác giảm nghèo tiếp tục được thực hiện có hiệu quả, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí đa chiều còn 3,63%. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi; phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá được duy trì và phát triển.
Công tác an ninh, quốc phòng địa phương được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Các cấp ủy dảng, chính quyền đã quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế đi đôi với củng cố quốc phòng - an ninh; thường xuyên chăm lo, xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân, lực lượng biên phòng trong sạch, vững mạnh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc.
Công tác tôn giáo, dân tộc được quan tâm chỉ đạo, đảm bảo thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, động viên, nắm bắt tư tưởng, nguyện vọng của các chức sắc và tín đồ tôn giáo; đồng thời, xem xét giải quyết kịp thời các đề nghị chính đáng, hợp pháp của các tổ chức tôn giáo trên địa bàn. Nắm bắt địa bàn kịp thời, phát hiện và xử lý những vụ việc vi phạm pháp luật về tôn giáo để ổn định tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, tạo sự nhất trí giữa cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo với các chức sắc tôn giáo, tạo sự đồng thuận xã hội và người dân. Động viên các chức sắc, tín đồ tôn giáo tích cực tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước và thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đã tổ chức thành công nhiều sự kiện tôn giáo lớn mang ý nghĩa quốc tế đảm bảo chặt chẽ, đúng quy định. Làm tốt công tác xây dựng lực lượng cốt cán, người có uy tín ở vùng đồng bào có đạo. Tỉnh đã có nhiều cách làm sáng tạo trong công tác tôn giáo như: Tổ chức giao lưu, gặp gỡ giữa các chức sắc, thanh niên tôn giáo góp phần củng cố vững chắc khối đoàn kết lương - giáo.
Hệ thống chính trị ngày càng được củng cố, chất lượng hoạt động được nâng lên. Phương thức và năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng từ tỉnh đến cơ sở có nhiều đổi mới; hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển của tỉnh. Công tác xây dựng Đảng được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đạt được nhiều kết quả trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, tạo nhiều chuyển biến tích cực. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được triển khai toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, bám sát thực tiễn, phục vụ hiệu quả các nhiệm vụ chính trị, góp phần giữ vững ổn định tình hình tư tưởng, củng cố niềm tin, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân. Việc triển khai thực hiện các chỉ thị của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với các nghị quyết về xây dựng Đảng nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) đạt nhiều kết quả, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong việc học và làm theo gương Bác được nhân dân đồng tình, đánh giá cao.
Bác đã đi xa nửa thế kỷ, nhưng tình cảm và những lời căn dặn của Người vẫn luôn khắc ghi trong tâm khảm và trái tim của lớp lớp thế hệ cán bộ, nhân dân Ninh Bình, trở thành động lực lớn lao trên con đường xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY
[1] Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, Tập 3 (1945-1946), tr. 113.
[2] Báo Cứu quốc, số 141, ngày 14-1-1946; số 142, ngày 15-1-1946.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1996, tr. 381
[4] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 9, tr. 382.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 9, tr. 529.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 9, tr. 529.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 9, tr. 530.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 9, tr. 530.
[9] Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình, Bác Hồ với Ninh Bình, Xí nghiệp in Ninh Bình, Ninh Bình, năm 1999, trang 123.
[10] Tỉnh ủy Hà Nam Ninh, Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nam Ninh (1954-1964), Nhà máy in Tiến Bộ, Hà Nội, năm 1990, trang 117-118.